Trần Cảo quê ở trang Dưỡng Chân, huyện Thủy Đường nay là thôn Dưỡng Chính, xã Chính Mỹ, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Do trùng tên với vua Trần Cảo thời hậu Trần- khởi nghĩa Lam Sơn nên gọi chệch đi là Trần Cao. Trần Cao đã từng giữ chức quan coi điện Thuần Mỹ. Đầu thế kỷ 16, triều đình phong kiến nhà Lê thối nát, đời sống nhân dân khổ cực. Trong tình hình đó, Trần Cao cùng con là Trần Thăng và những người cùng chí hướng đã tập họp nhân dân nổi dậy chống lại triều đình.
Cuộc khởi nghĩa do Trần Cao lãnh đạo diễn ra suốt 5 năm (1516-1521) trên địa bàn Hải Dương, Kinh Bắc, Lạng Giang. Thoạt tiên, Trần Cao tập hợp các tín đồ nổi dậy khởi nghĩa ở chùa Quỳnh Lâm, huyện Đông Triều, làm chủ hai huyện Đông Triều và Thủy Đường, trấn Hải Dương.
.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Trần Cao thường mặc áo đen, giả xưng là cháu vua Trần, tự xưng là Đế Thích giáng sinh để cứu nhân dân ra khỏi vòng khổ ải do nhà Lê gây ra. Hàng vạn người đã đi theo lời kêu gọi của Trần Cao. Nghĩa quân cạo trọc đầu để ba chỏm tóc nên còn gọi là lính tam đóa, phần lớn là nông dân nghèo, sư sãi, nô tỳ người Chiêm Thành.
Tháng 4 năm 1516 nghĩa quân tiến sang địa bàn các huyện Quế Dương, Tiên Du, Gia Lâm đến thẳng Bồ Đề, uy hiếp Đông Đô. Trần Cao bị quân triều đình đánh mạnh phải rút về Trâu Sơn (Quế Võ), nhưng rồi thế lực của Trần Cao càng ngày càng lớn mạnh, trong khi vua tôi nhà Lê chém giết lẫn nhau. Trần Cao từ Trâu Sơn tiến về Bồ Đề, chiếm kinh thành, lên ngôi vua, đặt niên hiệu Thiên Ứng, dùng Thái sư Lê Quảng Độ coi việc nước.
.
Nhưng rồi trước quyền lợi giai cấp bị đe dọa, các thế lực quan lại triều đình tạm thời hòa hoãn, tập hợp lực lượng đánh Trần Cao. Do chênh lệch lực lượng nên Trần Cao đã cho quân vượt sông Hồng về vùng Lạng Giang xây dựng căn cứ, đóng bản doanh ở làng Chu Nguyên (Vôi). Thấy dùng quân sự không đánh được nghĩa quân Trần Cao, bọn Lê Bá Chiêu dùng bả chức tước, vàng bạc để hòng bắt Trần Cao và đánh tan nghĩa quân của ông, nhưng không thành.
Do tinh thần quân đội và tướng lĩnh triều đình tan rã, nội bộ triều đình vẫn tiếp tục thanh toán lẫn nhau nên nhà Lê chưa có thời gian để đối phó với nghĩa quân. Trần Cao chiếm cứ toàn bộ vùng Lạng Sơn, Kinh Bắc, Hải Dương trong 5 năm rồi truyền ngôi cho con là Trần Thăng (Trần Cung). Còn Trần Cao đi tu dấu tung tích. Trần Thăng lên ngôi lấy niên hiệu là Tuyên Hóa.
Năm 1521, Trần Thăng bị Mạc Đăng Dung tấn công bắt được giải về Đông Đô hành hình.
.
Cuộc khởi nghĩa Trần Cao đã liên tiếp giành được thắng lợi to lớn, đã giáng một đòn mạnh và bộ máy thống trị của triều đại phong kiến thời Hậu Lê. Rất tiếc, đến nay chúng ta không có tư liệu nói về thời niên thiếu của Trần Cao và những hoạt động sau cuộc khởi nghĩa. Ngày nay tại các thôn Bảo Lạc, An Lạc, Chu Nguyên thuộc Lạng Giang vẫn còn thờ Trần Cao.
Những người tin thuyết Duy Tâm cho rằng, ông chính là hậu thân tái sinh của Trần Cảo từ thời đầu nhà Lê. Tiền thân Trần Cảo được Lê Lợi dựng làm vua theo lời yêu sách của Vương Thông, tướng nhà Minh. Nhưng sau khi Lam Sơn đại thắng, năm 1428, Lê Lợi đã giết Trần Cảo để lấy ngôi vua. Vì vậy Trần Cảo, mấy chục năm sau, tái sinh để báo thù. (Điểm đáng lưu ý là, năm 1516, hậu Trần Cảo khi xưng vua lấy hiệu là Thiên Ứng; trong khi đó tiền Trần Cảo khi được Lê Lợi dựng lên lấy hiệu là Thiên Khánh).
Tuy thời gian ngắn ngủi nhưng Trần Cao đã cho phát hành hai đồng tiền Thiên Ứng Thông Bảo và Phật Pháp Tăng Bảo. Sự kiện này được đề cập trong sách Lịch sử tiền đồng Việt Nam của Allan Berker. Có thể suy luận rằng đồng tiền Thiên Ứng Thông Bảo được Trần Cảo phát hành khi chiếm được Thăng Long, lên ngôi vua, lấy niên hiệu Thiên Ứng. Đồng tiền Phật Pháp Tăng Bảo phát hành vào cuối cuộc khởi nghĩa, khi Trần Cảo cắt tóc đi tu. Còn một đồng tiền nữa xuất hiện cùng thời có cùng thư pháp và ý nghĩa như đồng Phật Pháp Tăng Bảo là đồng Xưng Pháp Nguyên Bảo thì chưa thấy được sách này nhắc đến một cách cụ thể. Có thể ở vào thời kỳ các tác giả biên soạn cuốn sách đó thì trong công tác khảo cổ chưa phát lộ đồng tiền này. Cũng theo Allan Berker thì con trai Trần Cảo là Trần Thăng có thể tiếp tục binh quyền, và phát hành đồng tiền Tuyên Hòa Hựu Bảo, các sách về lịch sử tiền Việt Nam (như của Gosen và Ding Phu Bao) cũng đã giới thiệu đồng tiền này.
Đồng tiền Phật Pháp Tăng bảo là một trường hợp rất hy hữu khi hiệu tiền liên quan trực tiếp đến đạo Phật. Phật chính là bậc đầy đủ phước huệ , thấu rõ tận cùng các pháp .Pháp là pháp mà Đức Phật đã tự giác ngộ và khai ngộ cho người. Tăng là người tu hành theo Phật pháp. Ba điều này gọi là Tam bảo, chính là căn bản của Phật pháp.
(Theo Đại Việt sử ký toàn thư và Địa chí Bắc Hà)
Hình 1: Đồng xu cổ Thiên Ứng thông bảo
Hình 2: Đồng xu cổ Phật Pháp Tăng Bảo
Trích bài viết của NST Lê Khánh Ngọc Anh đăng trên diễn đàn của CLB sưu tầm tháng 10 ngày 13/9/2023