Sau hơn 10 năm hưởng Thái Bình, dân Đại Việt chuẩn bị phòng thủ trước âm mưu xâm lược của lân bang to lớn, nước Đại Tống. Băn khoăn trước vận nước, ấu chúa chưa tham chính được, giang sơn có cơ nguy vong, thái hậu triều Đinh bèn khoác long bào lên vai chủ soái Lê Hoàn. Thập đạo Tướng quân lên ngôi, lập ra triều Lê (sử gọi là “nhà Tiền Lê”) lấy niên hiệu là Thiên Phúc (980-988) rồi sau đó đổi sang Hưng Thống (989-994), Ứng Thiên (995-1005).
Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng: “Giáp Thân, năm thứ 5 (984), mùa xuân, tháng 2, đúc tiền Thiên Phúc". Ngày nay, chúng ta đã tìm thấy tiền Thiên Phúc Trấn Bảo mà các nhà nghiên cứu tiền trên thế giới đều công nhận tiền này do Lê Đại Hành đúc. Xem kỹ, có thể thấy các loại chính khác nhau ở mặt lưng như sau:
1. Mặt lưng ngoài các gờ viền thì trơn, không có chữ gì.
2. Mặt lưng có chữ Lê ở trên lỗ vuông: do ngày xưa chữ viết trên khuôn đúc bằng thủ công nên chữ “Lê” đôi khi viết lớn nhỏ khác nhau.
Bổ sung thêm: loại có chữ Lê này thường được các nhà sưu tập chia làm các dạng: chữ Lê nhỏ (hay gặp nhất), chữ Lê giản thể và chữ Lê to (ít gặp hơn)...
Về niên hiệu Thiên Phúc, cũng còn gặp vào thời Ngũ Đại - Thập Quốc (Trung Quốc) của Hậu Tấn - Cao Tổ (Thạc Kính Đường) năm 937-942, và cũng có thêm loại tiền Thiên Phúc Nguyên Bảo. So sánh hai loại tiền Thiên Phúc, nhận thấy một số dị biệt sau:
- Về văn tự, dễ dàng thấy tiền Thiên Phúc Nguyên Bảo mang thư pháp của các chữ trong các loại tiền Trung Quốc đương thời: hai chữ “nguyên bảo” nét viết hoàn toàn giống với chữ trong các loại tiền Khai Nguyên Thông Bảo, Càn Nguyên Trọng Bảo, Thông Chính Nguyên Bảo, Thiên Hán Nguyên Bảo, Quang Thiên Nguyên Bảo, Càn Đức Nguyên Bảo, Hàm Khang Nguyên Bảo, và cả Tống Nguyên Thông Bảo... Hai chữ “Thiên Phúc” trong tiền này viết chững chạc, cứng cáp. Thêm nữa, tiền Thiên Phúc Nguyên Bảo, bốn chữ Hán đọc tròn càng mang đặc điểm của tiền Trung Quốc đương thời. Ngược lại, tiền Thiên Phúc Trấn Bảo, bốn chữ đọc chéo khác hẳn, thư pháp trên đồng tiền rất Việt Nam: mộc mạc, chân thật, hiền hòa, chập chững như trẻ mới tập viết, cũng như lối chữ trên tiền Thái Bình Hưng Bảo của triều Đinh
- Về chất liệu, phần lớn đều được làm bằng đồng thau, cũng có loại làm bằng đồng bạch. Nhưng tiền của Trung Quốc chất liệu đồng thau cứng do kỹ thuật luyện kim đã cao. Ngược lại, tiền Thiên Phúc Trấn Bảo chất đồng còn mềm cũng như tiền Thái Bình Hưng Bảo, nên khi mài dễ mòn nhanh
- Về đường kính đồng tiền Thiên Phúc Trấn Bảo, cũng như tiền Đại Bình Hưng Bảo, đều bằng nhau, 23mm.
Một vài đặc điểm trên, có thể dễ dàng phân biệt và giám định tiền Thiên Phúc Nguyên Bảo là của Trung Quốc, còn tiền Thiên Phúc Trấn Bảo là của Lê Đại Hành, Việt Nam. Ngoài ra, một chứng lý nữa là đồng tiền của vua còn được các thương gia sử dụng sang tận Trung Quốc gây rối loạn tiền tệ nơi này như Lê Quý Đôn trích từ Tống hội yếu: “Quan bí thư thừa là Chu Chính Thần nói: Lúc trước làm thông phán ở Quảng Châu, thấy khách thương phiên trấn thường sang Giao Châu buôn bán đem thứ tiền chữ Lê và tiền sa lạp đến Quảng Châu, làm rối loạn phép tiền tệ của Trung Quốc. Đấy là thứ tiền mà nhà Tiền Lê nước ta đã đúc ra, bề mặt đồng tiền ấy có chữ Thiên Phúc Trấn Bảo, bề lưng có chữ Lê. Đồng tiền này nay vẫn còn, nhưng ít thấy''.
Điểm độc đáo nữa là chữ ''trấn'' trong hiệu tiền chưa có tiền lệ trên tiền Trung Quốc, mà xuất hiện trên tiền vua Lê Việt Nam như ngụ ý ""Thái Bình"" đã "Hưng Bảo'' thì ta được "Thiên Phúc'' (Phúc của trời ban) phải ra sức là ''Trấn'' (Giữ) Bảo'' vậy!
Hình: Từ trái sang phải, Thiên Phúc Trấn Bảo hậu Lê nhỏ, Lê giản thể và Lê to
(Trích trong sách Lịch sử tiền tệ Việt Nam - Sơ truy và lược khảo của Nguyễn Anh Huy, có bổ sung chỉnh lý một số đoạn)